• EMAIL:
    sct@bentre.gov.vn
  • ĐIỆN THOẠI:
    0275.3822 365- 3822 251
  • ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC:
    Trung tâm Khuyến công & Xúc tiến thương mại
    0275.6281888 - 0275.3822403
Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai thực hiện Kết luận số 28-KL/TU về Đề án phát triển công nghiệp tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016 – 2020 và hướng đến năm 2030

Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai thực hiện Kết luận số 28-KL/TU về Đề án phát triển công nghiệp tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016 – 2020 và hướng đến năm 2030

(Cập nhật: 28/11/2019)
Ngày 20/11/ 2019, Tỉnh ủy đã có báo cáo số 539-BC/TU Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai thực hiện Kết luận số 28-KL/TU về Đề án phát triển công nghiệp tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016 – 2020 và hướng đến năm 2030.
Sau khi Tỉnh ủy ban hành Kết luận số 28-KL/TU, Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt Đề án phát triển công nghiệp tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016 - 2020 và hướng tới năm 2030, chỉ đạo các Sở ngành và các địa phương căn cứ vào mục tiêu, định hướng, giải pháp của Đề án và chức năng, nhiệm vụ của ngành, địa phương chủ động xây dựng kế hoạch, đồng thời, tiến hành phổ biến, triển khai cho tất cả cán bộ, công chức, viên chức và người lao động để thống nhất tổ chức thực hiện có hiệu quả Đề án.
Sau 03 năm thực hiện, so với Kết luận số 28-KL/TU, có 02/06 chỉ tiêu vượt mục tiêu (phát triển mới doanh nghiệp công nghiệp vượt 15%; tạo việc làm ổn định cho lao động vượt 20%), 02/06 chỉ tiêu đạt trên 80% (Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt 83,86%; tỷ lệ doanh nghiệp đổi mới công nghệ đạt 90,5%) và 02/06 chỉ tiêu đạt trên 70% (giá trị tăng thêm ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp).
Tập trung huy động nguồn lực để đầu tư phát triển nhanh kết cấu hạ tầng công nghiệp theo quy hoạch, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng đến năm 2020 và những năm tiếp theo
Công tác huy động các nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng công nghiệp được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Trong giai đoạn 2016 – 2018, tỉnh đã phân bổ 583.675 triệu đồng để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp (CCN) và đang tiếp tục cân đối ngân sách tỉnh để đầu tư các giai đoạn còn lại CCN Long Phước và khu công nghiệp (KCN) Phú Thuận. Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư trong điều kiện ngân sách có nhiều khó khăn, tỉnh đã ban hành chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật CCN, qua đó thu hút được 01 doanh nghiệp (Công ty TNHH đầu tư KCN Thiên Phúc) đầu tư và kinh doanh hạ tầng CCN Phú Hưng và CCN An Hòa Tây, với tổng vốn đầu tư khoảng 1.377,64 tỷ đồng.
KCN Giao Long và An Hiệp đã được lấp đầy (tổng diện tích đất cho thuê 171,82ha/172,37ha đạt 99,68% đất công nghiệp có khả năng cho thuê); có 51 dự án đầu tư còn hiệu lực, ngành nghề chủ yếu thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, may mặc, cơ khí, điện tử,….với tổng vốn đăng ký 14.694,34 tỷ đồng; hạ tầng đã cơ bản hoàn chỉnh. KCN Phú Thuận đã được phê duyệt chủ chương đầu tư, đang triển khai các bước tiếp theo (đo đạc, kiểm tra, kiểm kê thực địa, áp giá,...). KCN Giao Hòa và Thanh Tân hiện cũng đã có các nhà đầu tư tiếp cận, tìm hiểu cơ hội đầu tư.
10 CCN đã được thành lập, diện tích 347,28 ha, có 08 cụm đã quy hoạch chi tiết, diện tích 304,365 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp 219,326 ha, đã cho thuê 87,385 ha, tỷ lệ lấp đầy 39,84%; có 25 dự án đăng ký đầu tư với tổng vốn đầu tư khoảng 4.925 tỷ đồng.
Hạ tầng bên ngoài hàng rào khu, CCN cũng được chú trọng đầu tư, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng nhiều công trình giao thông quan trọng. Điện được đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp, nhất là vào mùa khô(ngành điện đã đầu tư tổng vốn là 473,657 tỷ đồng để thực hiện các công trình lưới điện 220kV, 110kV và lưới trung và hạ thế) và hỗ trợ các nhà đầu tư triển khai thực hiện các dự án điện gió, điện mặt trời. Nhiều công trình cấp nước đã được triển khai thực hiện, các dự án của Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Công ty cổ phần cấp thoát nước và của các nhà đầu tư tư nhân đã đầu tư tăng thêm được khoảng 66.480 m3/ngày đêm, đáp ứng nhu cầu nước sạch phục vụ sản xuất công nghiệp.
Tái cơ cấu các ngành công nghiệp theo hướng đầu tư và tăng dần tỷ trọng giá trị gia tăng chuỗi sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh
Sản xuất công nghiệp có sự chuyển dịch đúng hướng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo luôn chiếm ưu thế, ước chiếm tỷ trọng 97,61% vào cuối năm 2019. Ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp ưu tiên luôn được chú trọng để khai thác có hiệu quả các thế mạnh về nguồn nguyên liệu, phục vụ cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, đã thu hút được 51 dự án đầu tư (với tổng vốn đầu tư khoảng 2.130,223 tỷ đồng). Nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư mới công nghệ, máy móc, để nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, để khai thác có hiệu quả các lợi thế, tiềm năng từ nguồn năng lượng sạch, thúc đẩy công nghiệp phát triển nhanh và bền vững, tỉnh đang tập trung triển khai thực hiện một số dự án điện gió, điện mặt trời tại các huyện ven biển.
Về khoa học công nghệ và khuyến công
Hoạt động khoa học công nghệ có nhiều chuyển biến; tốc độ đổi mới công nghệ đạt 18,1%; giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 27%. Hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu dùng cho 13 sản phẩm và 04 doanh nghiệp khởi nghiệp; 14 lượt cơ sở xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến; đề nghị Hội đồng Quốc gia xét tặng giải vàng Chất lượng Quốc gia cho 02 doanh nghiệp.
Ngoài việc ban hành quy chế quản lý và sử dụng kinh phí khuyến công, tỉnh đã ban hành kế hoạch hành động sản xuất sạch hơn trong công nghiệp giai đoan 2016 – 2020, Chương trình khuyến công giai đoạn 2016 – 2020, nhằm hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện phân công lại lao động xã hội và góp phần xây dựng nông thôn mới. Qua đó, đã hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện 48 dự án, trong đó 16 dự án khuyến công quốc gia (kinh phí hỗ trợ 4.365 triệu đồng), 32 dự án khuyến công tỉnh (kinh phí hỗ trợ 3.770 triệu đồng) và huy động vốn đối ứng các doanh nghiệp khoảng 76.841 triệu đồng để thực hiện các dự án đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ bị, mở rộng, phát triển sản xuất.
Phát triển doanh nghiệp và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từng bước đáp ứng yêu cầu định hướng phát triển công nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế
Giai đoạn 2016-2019 thành lập mới 1.720 doanh nghiệp (trong đó có 345 doanh nghiệp công nghiệp), vốn đăng ký 11.706,1 tỷ đồng; đồng thời, đã giải thể 318 doanh nghiệp, thu hồi giấy đăng ký kinh doanh 293 doanh nghiệp. Công tác hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp luôn được quan tâm thực hiện, số lượng doanh nghiệp thành lập mới ngày càng tăng, giảm dần số lượng doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; doanh nghiệp ngày càng chú trọng về ứng dụng kỹ thuật công nghệ vào quản lý, sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, nhãn hiệu hàng hóa, năng lực cạnh tranh.
Công tác đào tạo nghề có nhiều tiến bộ, góp phần đáng kể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đã tuyển sinh và đào tạo nghề cho 30.457 người; đào tạo các nghề hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa 25.000 người, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 56,10% so với lực lượng lao động. Số lao động nông thôn sau khi học nghề tìm được việc làm đạt trên 80%, tùy theo ngành nghề đào tạo.
Phát triển bền vững các làng nghề
Đến nay đã có 57 làng nghề được công nhận, trong đó có 18 làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Để nâng cao tay nghề cho lao động làng nghề, hàng năm, tỉnh mở các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ; từng bước đầu tư xây dựng đường giao thông, cống thoát nước và hệ thống xử lý nước thải làng nghề (nhất là các làng nghề có nguy cơ ô nhiễm nặng), bước đầu tạo điều kiện cho làng nghề phát triển, góp phần phát triển nông thôn.
Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến thu hút đầu tư, hoạt động doanh nghiệp
Công tác cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh luôn được quan tâm và thực hiện có hiệu quả, năm 2019 tỉnh đưa Trung tâm phục vụ hành chính công đi vào hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân, thời gian giải quyết hồ sơ liên quan đến doanh nghiệp không ngừng được rút ngắn,..Các ngành, địa phương thường xuyên phối hợp nắm tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Qua đó giúp chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh không ngừng được cải thiện (từ hạng thứ 12 năm 2016, lên vị trí thứ 4 vào năm 2018, thuộc nhóm điều hành tốt), góp phần thu hút đầu tư tốt hơn.
Đối mới, nâng cao năng lực và hiệu quả công tác xúc tiến thương mại
Hoạt động xúc tiến thương mại có nhiều tiến bộ, được doanh nghiệp quan tâm nhiều hơn, đã tổ chức và tham gia nhiều hội chợ, hội thảo trong, ngoài nước và mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn,...tác động tích cực, giúp doanh nghiệp nắm vững các chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật, nâng cao kiến thức về hội nhập; nắm bắt nhu cầu, xu hướng phát triển của thị trường,… để điều hành, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Giải pháp về đất đai và các biện pháp bảo vệ môi trường
Công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng phát triển các khu, CCN (KCN Phú Thuận, CCN Long Phước, CCN Tân Thành Bình, CCN Phú Hưng) được triển khai đúng quy định. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường, lấy tiêu chí phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững làm căn cứ thẩm định, đánh giá. Công tác xử lý khắc phục cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được tập trung thực hiện. Đến nay, thu gom, xử lý 100% nước thải tại các khu, CCN (2/2 khu).
Phát triển vùng nguyên liệu
Để phát triển bền vững công nghiệp chế biến, tỉnh luôn quan tâm phát triển vùng nguyên liệu, nhất là dừa, thủy sản và một số loại cây ăn trái gắn với xây dựng, hoàn thiện chuỗi giá trị 08 sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh. Ngoài ra, các huyện còn lựa chọn và xây dựng thêm chuỗi giá trị cho các sản phẩm là thế mạnh của địa phương như: chuỗi nghêu, rau an toàn (huyện Ba Tri); lúa sạch, xoài (huyện Thạnh Phú); cây giống, trái sầu riêng (huyện Chợ Lách); tôm càng xanh (huyện Giồng Trôm),…
Nhìn chung, được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo và sự phối hợp thực hiện của các sở, ban, ngành đoàn thể và địa phương, qua 03 năm triển khai thực hiện, cơ bản đã triển khai tốt các đầu việc, giải pháp được giao tại Kết luận số 28-KL/TU của Tỉnh ủy, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và phát triển bền vững.
   
Nguồn: QLCN-SCT