• EMAIL:
    sct@bentre.gov.vn
  • ĐIỆN THOẠI:
    0275.3822 365- 3822 251
  • ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC:
    Trung tâm Khuyến công & Xúc tiến thương mại
    0275.6281888 - 0275.3822403

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆNNGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI ĐẢNG BỘ TỈNH CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG

(Cập nhật: 26/02/2025)
      Trên cơ sở các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại Nghị quyết của Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh, Sở Công Thương đã xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển ngành công thương giai đoạn 2021-2025. Qua 05 năm triển khai thực hiện kế hoạch, Sở Công Thương đã rà soát, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh trên địa bàn tỉnh thuộc lĩnh vực công thương đến nay, ước đạt những kết quả như sau:
 
      - Giá trị sản xuất CN-TTCN ước thực hiện trong giai đoạn 2021- đạt 182.883 tỷ đồng, tăng 38,52% so với giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng bình quân ước đạt 8,58%/năm, đạt 78,16% mục tiêu kế hoạch; Kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện trong giai đoạn 2021-2025 ước đạt 7.750,5 triệu USD, tăng 47,2% so với giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng bình quân ước đạt 6,67%/năm, đạt 77,5% so với mục tiêu kế hoạch.

        - Cơ cấu hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu, có hàm lượng công nghệ cao, giảm tỷ trọng hàng thô và gia công; chủ thể xuất khẩu không ngừng tăng lên, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; hiện tại đã có hơn 150 doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.

         - Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, đã xuất khẩu sang hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ; tình hình thương mại tăng trưởng khá, hàng hóa dồi dào, đa dạng đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội ước thực hiện trong giai đoạn 2021-2025 đạt 318.299  tỷ đồng, tăng 54,74% so với giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng bình quân ước đạt 8,95%/năm, đạt 77,51% so với mục tiêu kế hoạch; cung cấp điện đảm bảo an toàn, liên tục phục vụ nhu cầu sản xuất, dịch vụ, sinh hoạt của nhân dân và các sự kiện văn hóa, chính trị diễn ra trên địa bàn tỉnh. Tỉ lệ hộ sử dụng điện trong dân luôn ở mức cao, đạt 99,98%; hạ tầng thương mại: hệ thống chợ, siêu thị được nâng cấp, mở rộng, đáp ứng nhu cầu mua sắm của nhân dân.

           - Toàn tỉnh hiện có 171 chợ truyền thống (trong đó có 154 chợ trong quy hoạch, còn lại là chợ tạm; có 30 chợ do doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư, kinh doanh, khai thác và quản lý. Hệ thống phân phối, bán lẻ: 04 siêu thị, 02 trung tâm thương mại, 54 cửa hàng Bách Hóa Xanh, 07 cửa hàng Wimart+, 06 Cửa hàng mẹ bầu và em bé concung.com, 09 Cửa hàng Jerry.com và hệ thống cửa hàng bán lẻ quy mô hộ gia đình,…

           - Hoạt động xúc tiến thương mại có nhiều chuyển biến tích cực, quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá, kết nối cung cầu, mở rộng thị trường tiêu thụ và gắn kết sản xuất với thị trường; hỗ trợ và phát triển có hiệu quả các cửa hàng trưng bày, giới thiệu các đặc sản, sản phẩm OCOP của tỉnh đến các tỉnh, thành trong cả nước; qua đó, giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận, trao đổi và ký kết được nhiều biên bản ghi nhớ với các đối tác,...Các hoạt động xúc tiến thương mại thị trường nước ngoài thông qua các kênh: Chương trình Xúc tiến thương ngoại quốc gia, Bộ Ngoại giao,… bước đầu đã đem lại hiệu quả thiết thực; nhiều đơn hàng, hợp đồng đã được ký kết, nhiều lô hàng như: dừa uống nước, bưởi đã được xuất khẩu xuất đến thị trường các nước, tạo tiền đề cho sự phát triển thị trường sản phẩm nông sản chủ lực của tỉnh,… và mở ra hướng kết nối giao thương giữa doanh nghiệp địa phương với các nhà nhập khẩu lớn, tạo hiệu quả lan tỏa, tăng động lực, phấn khởi mới cho các doanh nghiệp trong công tác thâm nhập, phát triển thị trường.

 
           - Xác định cải cách hành chính (CCHC) là nhiệm vụ đột phá, Sở Công Thương đã kịp thời tham mưu UBND tỉnh ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thể chế hóa các chính sách của ngành công thương tại địa phương trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu và quản lý công nghiệp; triển khai thực hiện kịp thời các quy định liên quan đến các lĩnh vực thuộc chức năng quản lý của ngành công thương.

           - Hiện tại, Sở Công Thương có 136 thủ tục hành chính (TTHC) gồm 23 lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết, trong đó có 122 TTHC giải quyết theo cơ chế một cửa và 14 TTHC liên thông. Các TTHC được được tiếp nhận và trả kết quả tại Trung tâm Phục vụ hành chính công của tỉnh. 100% TTHC được công khai trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, Cổng thông tin thành phần của Sở và niêm yết tại Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả đặt tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh; đã cung cấp 134 dịch vụ công trực tuyến (gồm có 79 dịch vụ công trực tuyến toàn trình, 55 dịch vụ công trực tuyến một phần) và 02 dịch vụ cung cấp thông tin trực tuyến; có 122/134 Dịch vụ công trực tuyến đã được tích hợp trên Cổng dịch vụ công quốc gia. Các dịch vụ công trực tuyến ngày càng phát huy hiệu quả, tỷ lệ hồ sơ trực tuyến đạt trên 90%.

            - Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là phát triển năng lượng tái tạo,đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh được phê duyệt 22 dự án điện gió (bao gồm 19 dự án đã được phê duyệt tại Quy hoạch điện VII (1.007 MW) và 03 dự án được phê duyệt trong Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII (93 MW)). Hiện tại có 09 dự án đã triển khai lắp đặt hoàn thành các tuabin với công suất khoảng 365,9 MW. Tổng công suất đóng điện hòa lưới là 250,75/365,9 MW (thấp hơn chỉ tiêu Nghị quyết, NQ có ít nhất 1500 MW đưa vào khai thác).

             Những kết quả của ngành công thương nêu trên đạt được nhờ vàosự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, cùng với sự phối hợp tích cực của các Sở, ngành, các huyện, thành phố trong việc triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Chương trình số 08-CTr/TU. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực công thương nghiệp ngày càng được nâng cao. Mặc dù, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp nhưng với quyết tâm cao, đã triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp, các doanh nghiệp đã cùng chính quyền, đoàn thể các cấp nêu cao tinh thần vượt khó, nỗ lực thích ứng với tình hình mới, cố gắng duy trì sản xuất kinh doanh và tạo việc làm, thu nhập cho người lao động; đẩy mạnh công tác xúc tiến, thu hút đầu tư góp phần phát triển công nghiệp; quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao, đổi mới công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, thúc đẩy phát triển sản phẩm chủ lực của vùng theo chuỗi giá trị, đặc biệt là các sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu….

             Sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì; dự án đầu tư khu công nghiệp Phú Thuận, Khu nhà ở công nhân và tái định cư phục vụ khu công nghiệp Phú Thuận đang tập trung đẩy nhanh tiến độ. Triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển cụm công nghiệp tại các huyện, thành phố giai đoạn 2021-2025 phù hợp với điều kiện phát triển của từng địa phương.

             Loại hình thương mại điện tử phát triển khá mạnh, hàng hóa bảo đảm đầy đủ số lượng, đa dạng chủng loại, bảo đảm phục vụ tốt cho nhu cầu mua sắm của người dân. Hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá, kết nối cung cầu thị trường vẫn duy trì với nhiều hình thức phù hợp điều kiện thực tế.

               Hạ tầng thương mại tiếp tục được đầu tư. Hoạt động thương mại, dịch vụ khá sôi động, không có hiện tượng tăng giá đột biến đối với các mặt hàng thiết yếu, các mặt hàng lương thực, thực phẩm; sản phẩm thiết yếu khá đa dạng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá, kết nối cung cầu thị trường duy trì với nhiều hình thức; hỗ trợ xúc tiến thương mại ngoài nước được quan tâm thực hiện qua các đoàn giao thương, kết nối cung cầu hàng hóa với doanh nghiệp, nhiều bản ghi nhớ hợp tác được ký kết.

               Bên cạnh những kết quả đã đạt được, các chỉ tiêu của ngành thực hiện đạt thấp so với kế hoạch do đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn, điểm xuất phát thấp, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ; Các điều kiện khách quan không diễn ra như dự báo kế hoạch: Tình hình dịch bệnh ở đầu nhiệm kỳ đã tác động lớn đến tình hình kinh tế xã hội; tình hình kinh tế và chính trị thế giới có nhiều bất ổn, khó khăn và thách thức, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội và sự phát triển kinh tế, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ sở ngành công thương gặp nhiều khó khăn do thiếu đơn đặt hàng, sức tiêu thụ trên thị trường chậm, thời gian vận chuyển kéo dài, giá cước tăng,…;

                Tình hình thời tiết bất lợi, hạn mặn kéo dài, ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu đầu vào, giá nông sản giảm khiến người dân mất thu nhập nên hạn chế mua sắm, sức mua tăng chậm; công tác giải phóng mặt bằng, công tác đầu tư phát triển hạ tầng các khu, cụm công nghiệp không đạt tiến độ như kế hoạch, không có mặt bằng thu hút đầu tư phát triển sản xuất; đầu tư hạ tầng bảo vệ môi trường các cụm công nghiệp đã đi vào hoạt động còn chậm, gây cản trở trong quá trình thu hút đầu tư cũng như di dời các cơ sở, doanh nghiệp vào cụm công nghiệp,... Hầu hết các công trình điện gặp vướng mắc trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, từ đó ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các dự án tiếp theo, kế hoạch mở rộng sản xuất của doanh nghiệp và gây khó khăn trong việc đầu tư lưới truyền tải phục vụ đấu nối các dự án năng lượng tái tạo triển khai trên địa bàn tỉnh. Do áp lực về tiến độ, các chủ đầu tư chưa tuân thủ đúng các quy định về trình tự thu hồi đất, điều này làm cho mức giá đất trong khu vực có dự án tăng rất cao, dẫn đến các khó khăn khi triển khai các công trình cần phải thu hồi đất sau này, nhất là các dự án điện gió trên bờ. Các văn bản quy phạm pháp luật ban hành chưa theo kịp với xu hướng, tốc độ phát triển các nguồn năng lượng, nhất là các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Một số văn bản quy phạm pháp luật có tính ổn định chưa cao, phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần làm ảnh hưởng đến cơ hội cũng như việc thực hiện trình tự, thủ tục trong công tác đầu tư; đã phát sinh các vướng mắc có liên quan đến việc bồi thường hỗ trợ chưa được hướng dẫn cụ thể để thực hiện. Do biến động của cơ chế chính sách, các dự án điện gió đã đầu tư chậm được kết nối, hòa lưới,... đã tạo khó khăn trong việc triển khai đầu tư các dự án đã được phê duyệt chủ trương đầu tư, làm cho kế hoạch phát triển ngành công thương gặp nhiều khó khăn; đa số doanh nghiệp hoạt động với quy mô nhỏ và siêu nhỏ nên nguồn lực còn hạn chế, chưa thật sự quan tâm đến tầm quan trọng của việc đổi mới công nghệ, việc tăng năng suất, chất lượng để góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. đa số các dự án đăng ký đầu tư vào tỉnh có quy mô vừa và nhỏ; chưa thu hút được dự án có quy mô lớn, có giá trị gia tăng cao để đóng góp vào tăng trưởng chung của tỉnh; chưa khai thác hết được các lợi thế tiềm năng của tỉnh về dừa, thủy sản.

               Hoạt động đầu tư ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa tại một số doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa được chú trọng; nền địa chất yếu nên suất đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh cao hơn các địa phương khác.Vốn ngân sách chưa đảm bảo nhu cầu đầu tư phát triển hạ tầng, giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch để kêu gọi đầu tư cho các cụm công nghiệp; sản xuất công nghiệp tuy có phát triển nhưng tính bền vững chưa cao, các sản phẩm nhìn chung có sức cạnh tranh thấp. /.
(Tác giả: Tường Thụy-SCT)